Thực Hành Vô Ngã by
Vô Ngã
Thiết Lập Tịnh Độ – Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Chương 10. Đã về đã tới
‘‘Xá Lợi Phất, nếu có người đã, đang hay sẽ phát nguyện sinh về
cõi Bụt A Di Đà, thì người ấy ngay trong giờ phút phát nguyện, đã đạt được quả
vị giác ngộ cao tột không thối chuyển và đã có mặt ở nước ấy rồi, không kể đến
sự kiện là người ấy chưa sanh, đang sanh hay sẽ sanh về đó.’’
Câu kinh này có nhiều
người dịch khác nhau, nhưng theo cái hiểu của tôi thì dịch như trên mới rõ
nghĩa. Nếu ta tiếp nhận được ý nghĩa của câu kinh này thì ta xúc chạm tới được
bản môn.
‘‘Xá Lợi Phất, nếu có
người đã, đang hay sẽ phát nguyện sanh về cõi Bụt A Di Đà.’’ Ta có muốn sanh về
Cực Lạc hay không? Tất cả đều do ta. Ta có hai hoàn cảnh. Một là hoàn cảnh ta
đang hệ lụy khổ đau và hai là tuy ta đang ở trong hoàn cảnh ấy nhưng ta đã có
tâm muốn thoát ra khỏi hoàn cảnh ấy. Vì vậy vấn đề là ta có muốn thoát hay
không muốn thoát. Nếu ta muốn thoát, thì ta sẽ thoát được. Và nếu ta không muốn
thoát, thì ta sẽ không bao giờ thoát.
Quý vị đã từng bị lâm
vào một hoàn cảnh đau thương và hệ lụy của cuộc đời chưa? Có rồi phải không? Cuộc
đời sao mà nhiều khổ đau quá. Nhìn xung quanh, ta thấy người nào cũng khổ, người
nào cũng trầm luân, người nào cũng hệ lụy. Ta cũng hệ lụy, ta cũng chìm đắm như
người khác. Bấy giờ tự nhiên ta có ý muốn thoát ra, muốn đi tới một chỗ có an
toàn, có giới luật, có chánh niệm, có Tăng thân. Ăn thua là mình đã có ý muốn
đó hay không. Nếu có, thì tuy mình đang ở đó, mà mình đã bắt đầu thoát ra khỏi
chỗ đó rồi .Quý vị có hiểu không? Tại sao? Tại vì tâm mình không còn vướng mắc
vào chỗ khổ đau ấy nữa. Tuy thân của mình đang ở chỗ đó mà tâm của mình đã vượt
ra khỏi chỗ đó và đã đi đến chỗ kia rồi. Nghĩa là ngay lúc tâm mình phát nguyện
thì mình đã có mặt ở Tịnh Độ. Nếu có người đã, đang hay sẽ phát nguyện sanh về
nước Bụt A Di Đà, thì người ấy ngay trong giờ phút phát nguyện, đã đạt tới quả
vị cao tột, không còn thối chuyển, tức là không còn bị sa đọa. Và tại sao người
đó không bị sa đọa? Là do sự quyết tâm từ bỏ cõi uế độ của người đó. Ngay lúc
quyết tâm đó, tâm của họ đã sanh vào Tịnh Độ, sanh vào địa vị không thối chuyển.
Một khi ta đã sanh vào địa vị không thối chuyển, thì ta không còn sa đọa nữa. Nên
kinh nói nguyện sanh Tịnh độ là đã sanh rồi, không kể đến sự kiện là người ấy
đã sanh, đang sanh hay sẽ sanh về nước ấy.
Quý vị có thấy câu
kinh này mầu nhiệm không? Trong hoàn cảnh hệ lụy đau thương, mà nếu mình có ý
muốn thoát ly là mình có thể thoát ly ngay ở trong tâm của mình, và ngay trong
tâm của mình đã có cõi Tịnh Độ. Như vậy là tuy còn đứng ngay tại chỗ mà mình đã
sanh về Cực Lạc. Và mình có thể quay lại cứu vớt những người đang bị chìm đắm
trong khổ lụy.
‘‘Khổ hải mang mang hồi
đầu thị ngạn.’’ Biển khổ tuy là mênh mông, nhưng mà biết quay đầu lại, thì đã
thấy đất liền. Vậy vấn đề là ta có muốn quay đầu lại hay không? Trong giáo lý Tịnh
độ, tâm nguyện là quan trọng, vì nguyện luôn luôn gắn liền với đức tin. Có nguyện
và có đức tin thì cho dù ta đang ở trong hoàn cảnh khổ đau cùng cực đi nữa, ta
vẫn có nẻo để thoát ra, và nẻo thoát ấy là Tịnh Độ, là Tăng thân đang tu học có
giới, định và tuệ. Nếu có Tín, có Nguyện và có Hạnh thì sanh về Tịnh độ không
phải là chuyện khó đối với ta. Cũng vậy, nếu ta có Tín, có Nguyện và có Hạnh với
Đạo tràng Làng Mai, thì việc đi về với Đạo tràng Làng Mai sẽ không khó đối với
chúng ta. Chỉ một cú điện thoại cũng đủ giúp ta tới Đạo tràng Làng Mai rồi. Cô
thiếu nữ tên là Thục Hiền có ý muốn xuất gia và có quyết tâm xuất gia, thì
trong giờ phút quyết tâm xuất gia đó, cô đã thành tựu được hạt giống xuất gia ở
trong tâm cô rồi. Còn vấn đề cạo đầu, mặc áo chỉ là vấn đề hợp thức hóa thôi.
Nhìn cho sâu sắc là
ta phải thấy như vậy. Tín, Nguyện và Hạnh là tinh hoa của việc tu tập Tịnh Độ. Tín
là tin vào một nẻo thoát. Nguyện tức là muốn; muốn một cách tha thiết. Hạnh là
sự thực tập Tịnh Độ hằng ngày. Hễ có Tín, Nguyện và Hạnh là lập tức ta sanh về
Tịnh Độ, không kể đến sự kiện người ấy đã sanh, đang sanh hay sẽ sanh. Đọc kinh
là phải quyết tâm để thấy được chiều sâu của kinh. Phải đọc kinh bằng trái tim,
để khi tiếp xúc với tích môn, mình cũng tiếp xúc được với bản môn.
Đức Thích Ca dạy tiếp:
‘‘Quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà các Bụt trong vũ trụ đều đem hết
lòng xưng tán và hộ niệm’’. ‘‘Xưng tán’’ vì kinh này có công đức vô lượng và có
thể tạo ra nhiều thành tích, nhiều công đức. Và ‘‘hộ niệm’’ là yểm trợ bằng
năng lượng chánh niệm của mình. Như vậy tất cả chư Bụt đều khen ngợi sự thực tập
của kinh này, và hứa sẽ dùng năng lượng chánh niệm của mình để yểm trợ cho những
người nào muốn thực tập.
Lý luận có tính cách
biện chứng của sự hành trì này là: khi mình để tâm vào bất cứ một vị Bụt nào,
thì qua vị Bụt đó, mình có thể tiếp xúc với tất cả các vị Bụt khác trong vũ trụ.
Và vì vậy danh hiệu riêng của từng Ngài không còn là một vấn đề nữa, vì qua một
vị Bụt, mình có thể tiếp xúc với tất cả các vị Bụt trên thế giới. Cho nên ta niệm
Bụt nào cũng được hết, miễn là ta niệm Bụt cho được nhất tâm. Chính nhờ các vị
Bụt trong vũ trụ hộ niệm, mà hành giả sẽ không bị thối chuyển, tức là không bị
sa đọa.Thực tập là được giữ gìn để đi tới, chứ không phải đi lui.
Nhìn sâu, ta thấy
trong kinh có ý niệm về Tăng thân, và đây là một ý niệm hết sức căn bản và quan
trọng. Tại vì Tịnh Độ là sáng tạo phẩm cộng đồng của Tăng thân. Không phải chỉ
có Tịnh Độ của một vị Bụt. Tất cả các vị Bụt trong vũ trụ đều có Tịnh Độ, và đều
yểm trợ cho các cõi Tịnh Độ. Ở bài kinh này ta học được rằng: chỉ cần để tâm niệm
của mình hướng về một vị Bụt và niệm Bụt đến chỗ nhất tâm thì mình có cơ hội
tham dự vào cõi Tịnh Độ, dù trong lòng mình vẫn đang còn có những hạt giống khổ
đau.
Trong ta đang còn có
những hạt giống khổ đau, nhưng ta vẫn có thể tham dự vào cõi Tịnh Độ. Đây là một
điều rất hay, vì ở trong giáo lý Tịnh Độ có ý niệm ‘‘đới nghiệp vãng sanh’’. ‘‘Đới’’
là mang theo, quẩy theo. ‘‘Nghiệp’’ là những hậu quả khổ đau do những động tác
của cơ thể, của tư tưởng và của lời nói trong quá khứ đem lại. Mình có thể đem
những nỗi khổ niềm đau của mình về tham dự vào Tịnh Độ.
‘‘Vãng sanh’’ là đến
tham dự. ‘‘Đới nghiệp vãng sanh’’ nghĩa là đang quẩy nghiệp theo mà vẫn tham dự
được Tịnh Độ. Khi ta cầm một hòn đá hoặc một viên sõi và liệng xuống dòng sông,
thì dầu viên đá hoặc hòn sõi có nhỏ, có nhẹ đến mấy, nó vẫn chìm xuống sông như
thường. Nhưng khi ta có một chiếc thuyền để chuyên chở thì dù cho ta có đặt mấy
trăm ký đá vào thuyền thì thuyền cũng vẫn không chìm. Đây là một thí dụ rất hay
về ‘‘đới nghiệp vãng sanh’’. Một mình thì chìm nghỉm, nhưng có sức hộ niệm của
Tăng thân, của Bụt và Bồ tát, thì mình sẽ không chìm, mình vẫn nổi, và sự khác
nhau là ta có Tăng thân hay không, có Tịnh Độ hay không.
Có Tăng thân và có Tịnh
Độ thì cho dù mình còn có đau khổ trong tâm, mình cũng không bị chìm. Cái hay
là ở chỗ đó. Điều này có thể gọi là tha lực, tức là sức mạnh không phải sức mạnh
của mình mà của người khác. Nhưng tha lực được làm bằng chất liệu của tự lực. Thí
dụ: Tăng thân tuy là tha lực, nhưng tăng thân được làm bằng tự lực. Mỗi người đều
đóng góp năng lượng hạnh phúc và năng lượng an lạc của mình vào Tăng thân, nên
Tăng thân mới có năng lượng của chánh niệm, năng lượng của hạnh phúc, năng lượng
của an lạc. Đem năng lượng đó ra thì tăng thân cứu vớt và chuyên chở được nỗi
khổ niềm đau của người mới đến. Người mới đến cũng vậy, sự thực tập chánh niệm
của mình cũng có thể đóng góp vào năng lượng chánh niệm và niềm vui của Tăng
thân. Dù mình chỉ mới có chút ít niềm vui thôi, dù mình chỉ mới có chút ít năng
lượng chánh niệm thôi, mình cũng có thể đóng góp được cho Tăng thân rồi. Cái đó
gọi là tha lực. Tha lực được làm bằng tự lực. Tha lực có sẵn, nên khi mình tham
dự và thừa hưởng những hạnh phúc và an lạc của Tăng thân thì mình phải đóng góp
cái tự lực của mình vào cho Tăng thân.
Chúng ta thử nghĩ cõi
Tịnh Độ có rất nhiều người mới vãng sanh, trong tâm thức của họ vẫn còn những hạt
giống của tham giận, buồn rầu, sợ hãi, nghi ngờ, do đó, thỉnh thoảng họ vẫn còn
khổ đau. Bởi vì họ là hạng ‘‘đới nghiệp vãng sanh’’. Cho nên, ta đừng tưởng tượng
rằng khi được tham dự vào Tịnh Độ là ta sẽ không có vấn đề gì nữa hết. Nếu có một
cõi mà không phải Tịnh Độ, thì sự gặp gỡ của chúng ta trong cõi đó sẽ đưa tới sự
chất chứa những khổ đau và sẽ tạo thành địa ngục. Nhưng trái lại, nếu chúng ta
được gặp nhau ở cõi Tịnh Độ thì chúng ta có cơ hội để chuyển hóa khổ đau. Bởi
vì ở đó ta có Bụt và các vị bồ tát ‘‘nhất sanh bổ xứ’’, có nhiều bậc ‘‘thượng
thiện nhân’’, cho nên các ngài ôm ấp được những nỗi khổ niềm đau của người mới
vãng sanh, ôm ấp trong tình thương, ôm ấp trong sự hiểu biết, ôm ấp bằng đức
kiên nhẫn và sự hướng dẫn của mình. Do đó cõi Tịnh Độ có sức chịu đựng những nỗi
khổ niềm đau của những người ‘‘đới nghiệp vãng sanh’’ mới tới, và nghiệp của những
người đó sẽ được chuyển hóa từ từ bởi sự thực tập hàng ngày.
Buổi sáng được đi hái
hoa, được đi cúng Bụt, buổi trưa về ăn cơm chánh niệm, được đi thiền hành, nghe
pháp thoại do chim nói, do cây nói, được gần gũi Bụt A Di Đà, được thân cận bậc
thiện tri thức, đó là những điều kiện rất thuận lợi để tu tập, để chuyển hóa những
nỗi khổ niềm đau mà mình đã mang tới từ bên kia. Và vì vậy ở Tịnh Độ là dân
chúng phải tu, có phải vậy không?
Ở cõi Tịnh độ tất cả
dân chúng đều tu theo phép niệm Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng, nhờ gió, nhờ chim
yểm trợ, nhờ Bụt và các vị Bồ tát yểm trợ. Ta đừng nghĩ rằng qua đó, buổi sáng
ta có thể dậy trưa, không đi ngồi thiền rồi cũng không ra ăn cơm sáng với đại
chúng. Không có chuyện đó đâu. Qua bên kia là thế nào ta cũng sẽ làm đệ nhị
thân cho một vị Bồ tát. Vị Bồ tát ấy thế nào cũng kéo ta dậy đi ngồi thiền
chung, và giúp đỡ ta trong lúc khó khăn. Vậy, ‘‘đới nghiệp vãng sanh’’ là một
thực tại, và vì vậy cõi Tịnh Độ có tính chất của một cõi ‘‘phàm thánh đồng
cư’’.
Phàm là những người
trần tục, và thánh là những người đã được giải thoát, giải thoát một phần hoặc
giải thoát hoàn toàn. Phần thánh ôm ấp phần phàm, giữ gìn phần phàm đừng cho phần
phàm bung ra, và để cho phần phàm từ từ chuyển hóa. Cái hay của Tịnh Độ là
không phải không có phần phàm, nhưng cái phần phàm được ôm ấp, nâng niu và chăm
sóc bởi phần thánh.
Chúng ta hãy quán tưởng
đây là vòng tay của Bụt và của các vị Bồ tát đang ôm lấy tất cả chúng ta trong
nguồn năng lượng thánh thiện của các ngài. Nguồn năng lượng thánh thiện này là
nguồn năng lượng của chánh niệm. Và đây là những chúng sanh vừa mới vãng sanh,
có rất nhiều chất phàm trong họ. Nhờ có nhiều bậc ‘‘thượng thiện nhân’’ tụ tập
lại một chỗ, cho nên họ mới có đủ năng lượng thực tập chánh niệm để tự ôm ấp được
những phần phàm đó của họ. Mỗi cá nhân đều có phần phàm trong tự thân, nhưng mỗi
cá nhân cũng có phần thánh trong họ. Tuy mình là người phàm, nhưng vì mình đang
tu tập chánh niệm, nên phần thánh đã bắt đầu có mặt. Do đó chất thánh không phải
chỉ có ở nơi người khác mà cũng có nơi chính mình. Mỗi bước chân có chánh niệm,
mỗi hơi thở có chánh niệm đều có thể chế tác ra được phần thánh của mình để
mình có thể ôm lấy phần phàm của mình, và nếu chưa đủ, mình mượn phần thánh của
chư Bụt và của các bậc Bồ tát ‘‘nhất sanh bổ xứ’’ hoặc các bậc ‘‘thượng thiện
nhân’’ để ôm ấp và chuyển hóa phần phàm ở nơi mình.
Lý do tồn tại của
Tăng thân là sự có tu và có học. Tới với Tăng thân là để tu và để học, vì vậy,
mỗi ngày mình chế tác được chất ‘‘thánh’’ thêm một chút để ôm ấp lấy chất
‘‘phàm’’ trong mình và để chuyển hóa chúng. Ta hãy nhìn vào Tăng thân của ta để
thấy rằng Tăng thân của ta cũng là một cộng đồng phàm thánh đồng cư. Chất thánh
trong chúng ta mặc dù đang có, nhưng không thể nào so với chất thánh của chư Bụt
và Bồ tát. Và trong chúng ta có người có chất ‘‘thánh’’ nhiều hơn chất
‘‘phàm’’, nhưng cũng có người có chất phàm nhiều hơn chất thánh. Mỗi chúng ta đều
có cả hai chất liệu ấy, nhưng chất lượng phàm và thánh ở trong mỗi chúng ta đều
khác nhau.



0 Comments