Thực Hành Vô Ngã by
Vô Ngã
Thiết Lập Tịnh Độ – Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Chương 11. Hoa sen chín phẩm
Người ta nghĩ rằng ở
cõi Tịnh Độ sen được chia thành chín bậc. Những người vãng sanh sang bên đó có
nhiều trình độ và tùy theo trình độ đó mà người ta có chất thánh nhiều hay ít,
và chỗ ngồi của họ được tượng trưng bằng hoa sen ‘‘chín phẩm’’.
Khi còn ở trong cõi
Ta bà này, trong giờ phút hiện tại, mỗi khi quý vị niệm câu ‘‘Nam mô Bụt A Di
Đà’’ với tâm thành khẩn, chuyên nhất, thì chất liệu của chánh niệm được phát
sinh, và tự nhiên ở bên cõi Tịnh Độ một bông sen búp được tượng hình. Đó là một
hình ảnh rất đẹp, rất thi ca. Hãy khoan xem đó là một sự thật khách quan. Hãy
xem đó trước hết là một hình ảnh thi ca rất đẹp. Mặc dầu nó là một búp sen nhỏ
xíu nhưng mà nó đã có mặt.
Tôi vẽ trên bảng,
chia bảng thành hai phần. Phần này là cõi Ta bà. Phần kia là Tây phương Tịnh Độ.
Mình là một chúng sanh đang ở bên này, tức là ở cõi Ta bà. Mình niệm Bụt một
câu. Ở bên phần kia, một bông sen tượng hình. Đây là hình ảnh mà người ta hay sử
dụng để thực tập. Tùy theo công phu thực tập mà bông sen bên kia lớn nhanh hay
lớn chậm. Bông sen ấy là để dành cho mình. Mình sẽ sinh ra trong bông sen ấy.Khi
bông sen lớn và già giặn rồi thì nó nở ra. Ngay lúc đó ta được sinh ra. Ta xuất
hiện từ bông sen. Ta được sinh ra từ một bông sen (chứ không phải từ một bắp cải).
Ở cõi Tịnh Độ có chín
phẩm sen. Theo ‘‘Quán A Di Đà Phật Kinh’’ thì chín phẩm chia làm ba trình độ, mỗi
trình độ có ba phẩm và khi mình sinh sang cõi đó mà sinh vào phẩm thấp nhất là
“hạ phẩm hạ sanh”. Nếu là thượng căn thượng trí thì ta sanh ở phẩm ‘‘thượng phẩm
thượng sanh’’.
Ba trình độ được sinh
làm chín phẩm như sau:
Thượng phẩm - Thượng phẩm thượng sanh
Thượng phẩm trung sanh
Thượng phẩm hạ sanh
Trung phẩm – Trung phẩm thượng sanh
Trung phẩm trungsanh
Trung phẩm hạ sanh
Hạ phẩm – Hạ phẩm thượng sanh
Hạ phẩm trung sanh
Hạ phẩm hạ sanh
Mới nghe, ta có cảm
nghĩ bên cõi Cực Lạc mà cũng có giai cấp xã hội và có sự kỳ thị giai cấp. Nhưng
ta hãy coi chừng. Ta phải học với sự thông minh của ta. Khi ta sinh ra ở Tịnh Độ
với tư cách hạ phẩm hạ sanh thì tuy ta đã qua được bên đó nhưng ta vẫn còn mang
theo rất nhiều khổ đau. Có phải vậy không? Ta rất cần tới Tăng thân bên đó ôm ấp
và nâng đỡ để chuyển hóa. Vì còn khổ đau nên mặc dầu đã ở Tịnh Độ mà ta không
hưởng được hết một trăm phần trăm niềm vui của Tịnh Độ. Ta chỉ hưởng được năm
phần trăm của niềm vui đó thôi, hay có khi còn ít hơn. Nhưng sự kiện ta đang ở
Tịnh Độ là một điều mầu nhiệm lắm rồi, mặc dù ta còn đau khổ, còn nghi ngờ, mặc
dầu thỉnh thoảng ta còn muốn bỏ đi. Đã ở Tịnh Độ rồi, nhưng ta vẫn còn trồi lên
sụp xuống rất nhiều. Cho nên ta phải cần đến Tăng thân. Chúng ta cần phải bám lấy
Tăng thân. Tịnh Độ là vậy. Ở bên kia, có những người hạnh phúc rất lớn, vì họ
được sinh ra trên những bông sen thượng phẩm thượng sanh. Nhưng cũng có người
còn khổ đau.
Đôi khi mình tự hỏi: Tại
sao cùng sống trong một môi trường mà người kia nhiều hạnh phúc như vậy? Họ cười
vui suốt ngày. Còn ta, ta cũng muốn cười lắm chứ. Thấy họ cười vui, ta cũng
ráng cười theo, nhưng nhìn vào gương ta thấy nụ cười ta méo xẹo.
Nếu muốn hiểu về Tịnh
Độ, ta phải nhìn thực tế vào Tăng thân trong đó ta đang sinh hoạt, lúc đó ta sẽ
biết Tịnh Độ là gì và biết mình đang ngồi trên loại sen nào; sen thương phẩm,
sen trung phẩm hay là sen hạ phẩm.
Tại sao trong cùng một
Tăng thân, cùng trong một hoàn cảnh, cùng một Thầy, cùng những người bạn tu,
nhưng có người thì hạnh phúc quá chừng, thảnh thơi quá chừng, còn mình thì vẫn
cảm thấy đau khổ, cảm thấy cô đơn. Mình còn có cảm tưởng rằng mình là công dân
hạng bét của tăng thân nữa là khác.
Hãy lấy một ví dụ. Tăng
thân Làng Mai đang đi thiền hành với Thầy. Cũng Thầy đó, cũng những sư anh đó,
những sư chị đó, cũng những sư em đó, cũng đi trên con đường đó, cũng thấy những
hàng cây và nghe những tiếng chim đó. Nhưng tại sao có người đi thiền hành thì
đạt được rất nhiều hạnh phúc, nhưng cũng có người không đạt được hạnh phúc bao
nhiêu. Đó có phải là tại vì ngoại cảnh hay tại vì tâm tư riêng của mình? Câu trả
lời thật dễ dàng. Cái đó không phải do ngoại cảnh, mà là do tâm, bởi vì tất cả
ngoại cảnh đều do tâm biểu hiện.
Cũng bước đi từng bước
như vậy, nhưng tại sao người ta thì lại thảnh thơi, vững chãi. Còn mình thì lại
xụt xùi, vướng víu bên này, bên nọ. Vậy thì vấn đề đâu phải là ngoại cảnh. Chúng
ta đừng tưởng rằng được vãng sanh qua cõi Tịnh Độ thì hết vấn đề và ta khỏi cần
phải tu tập gì thêm. Nghĩ như vậy thì quá sai lầm. Tại vì được vãng sanh sang
bên đó cũng giống như đã thi đậu vào trường đại học. Mà tại trường đại học thì
ta phải học rất nhiều ‘‘cua’’. Cho nên ta không thể cúp ‘‘cua’’ được, ta phải
đi học cho đều, phải đi công khóa cho đều.
Bụt A Di Đà tuy rất
hiền, nhưng Ngài rất muốn chúng ta tu học và thương yêu nhau như là con một
nhà. Đó là tại vì mình muốn Bụt A Di Đà là từ phụ, là đấng cha lành, nghĩa là
người cha chỉ thương yêu, dạy dỗ, mà không rầy rà, không la mắng.
Chúng ta hãy nhìn vào
Tăng thân của chúng ta để quán chiếu. Ban đầu chúng ta đã nhờ một cơ duyên nào
đó mà đi tới được với Tăng thân này. Thật sự là ta đang ở với Tăng thân. Nhưng
cái sự thật ta đang ở trong Tăng thân không có nghĩa là ta không còn có vấn đề
gì nữa. Ta đã gia nhập tăng thân với những nỗi khổ và niềm đau còn lại của ta. Nhưng
ta đã rứt ra được hoàn cảnh ngày xưa, và ta đã tới được với Tăng thân: đó là đã
một thành tựu lớn. Và vì vậy ta phải biết thực tập, tức là phải đưa nỗi khổ niềm
đau ra để cầu xin Tăng thân ôm ấp nó cho ta, và ta cũng phải thực tập để tự ôm ấp
nỗi khổ niềm đau ấy để chuyển hóa chúng.
Chúng ta phải biết
nương tựa Tăng thân, phải hoàn toàn phó thác thân mạng mình cho Tăng thân. Tại
vì Tăng thân là cơ hội duy nhất để giúp ta ôm ấp và chuyển hóa nỗi khổ niềm đau
của ta. Có thể là ta đã qua tới cõi Tịnh Độ rồi, nhưng vẫn chưa ngồi chưa yên
và hoa sen trên đó mình ngồi chưa hẳn là hoa sen. Mình nói rằng Tịnh Độ này
không phải của tôi. Đó là tâm trạng của chúng sanh. Có khi đến một hoặc hai năm
sau thì cái suy nghĩ ấy mới không còn. Hạt giống muốn bỏ nhà ra đi, người nào
trong chúng ta cũng có. Tất cả mọi đứa trẻ đều có một lần muốn bỏ nhà ra đi do
giận cha, giận mẹ, giận anh hoặc giận chị. Có phải vậy không? Hạt giống ấy
không phải tự mình làm ra mà đã được trao truyền từ nhiều đời. Cho nên qua tới
Tịnh Độ rồi mà thỉnh thoảng ta vẫn muốn bỏ Tịnh Độ mà đi. Cái đó là chuyện rất
thường thôi bởi vì hạt giống bỏ nhà ra đi ấy trong ta vẫn còn chưa được chuyển
hóa.
Các thầy, các sư cô,
các sư chú và các Phật tử ở đây ai cũng biết rất rõ chuyện này. Nếu có phước đức
của tổ tiên, chúng ta sẽ không bỏ đi. Kiên trì ở lại được vài ba năm thì ta thấy
gốc rễ ta vững mạnh và ta bắt đầu có thế đi lên rất vững chãi. Điều đó đòi hỏi
một niềm tin nơi Tăng thân, một niềm tin nơi cõi Tịnh Độ mới được.
Bụt A Di Đà luôn luôn
có mặt đó để ôm ấp ta, các bậc thượng thiện nhân cũng luôn luôn có mặt để ôm ấp
ta. Nhưng vì quá đau khổ, thành thử ta không hưởng được cái hạnh phúc mà Bụt A
Di Đà hay những bậc thượng thiện nhân thương tưởng và trao truyền. Đôi khi nhìn
mặt Bụt A Di Đà, có thể ta thấy ngài không dễ thương mấy. Tại vì ta không thảnh
thơi và tự tại để có thể nhìn được rõ. Nhìn cái gì ta cũng thấy bị bóp méo, vì
ta đang bị vô minh che lấp tâm tánh. Muốn nhìn thấy Bụt A Di Đà trong tự thân của
Ngài, ta phải có sự tĩnh lặng, sự tự do. Còn nếu nhìn qua cặp mắt kính của hờn
giận và của ganh tức thì chúng ta chưa thể thấy được Bụt A Di Đà.
Sự thật là như vậy. Cho nên diễn tả Tịnh Độ bằng chín phẩm hoa sen tuy là đúng sự
thật, nhưng cũng rất nguy hiểm. Nguy hiểm ở chỗ ta có thể nghĩ: Ở cõi Tịnh Độ
mà cũng còn giai cấp, sang bên này rồi mà mình cũng còn phải làm công dân hạng
thứ chín chứ không phải hạng thứ nhì, và suy nghĩ như thế, mình sanh tâm ganh tức
những người kia. Nhưng sự thật không phải như vậy. Những người kia sở dĩ họ có
hạnh phúc không phải vì họ được Bụt A Di Đà thương yêu và biệt đãi hơn đâu. Bụt
đâu có tâm kỳ thị chúng ta. Vì tâm của ta còn nhiều vô minh và đau khổ cho nên
ta nghĩ rằng ta đang bị bạc đãi, ta đang bị kỳ thị, ta đang làm công dân hạng
nhì, hạng ba hay hạng chín. Tất cả những mặc cảm đó là do mình mà ra.
Đi sang cõi Tịnh độ rồi
mà hạt giống của Ta bà khổ đau vẫn còn và vẫn hiện khởi, cho nên ta không hưởng
được trọn vẹn cái vui của Cực Lạc. Trong khi đó những người khác lại hạnh phúc
quá chừng. Điều này ta đâu phải cần đi qua bên đó nhìn tận mắt mới thấy. Ngồi
đây, ở trong Tăng thân này, mình cũng có thể thấy được rồi. Ở trong Tăng thân
mình cũng thấy có chín phẩm. Có những người cảm thấy rất thoải mái, rất hạnh
phúc, nhưng cũng có những người vẫn còn nhảy nhỗm, vẫn còn muốn bỏ đi, vẫn còn
giận hờn, vẫn còn cảm tưởng bị kỳ thị.
Điểm này trên bảng chỉ
cho cõi Ta bà, còn điểm bên kia chỉ cho cõi Tịnh Độ. Điểm này là điểm bây giờ,
và điểm kia là điểm lúc đó – lúc đó là lúc sau khi mình chết và được sanh sang
cõi Tịnh Độ. Đây là điều chúng ta cần phải để ý. Bởi vì ta đang thực tập theo
nguyên tắc ‘‘bây giờ và ở đây’’. Và ta có thể nghĩ rằng ta thực tập là để đạt
được một kết quả trong tương lai, nghĩa là sẽ được sinh ra ở điểm bên kia. Trong
lúc thực tập, đôi khi ta cũng sinh tâm chán bỏ, chán ghét bên này. Chán ghét
bên này mà đi tìm bên kia, chán ghét bây giờ để đi tìm một cái gì trong tương
lai. Đây là tâm lý của chúng sanh, rất có tính cách phổ biến.
Tâm niệm của chúng
sanh thường chán ghét hiện tại và nghĩ rằng hạnh phúc chỉ có thể có mặt trong
tương lai. Mình chán ghét cái ở đây và mình đi tìm một cái ở nơi khác. Vì vậy,
Bụt mới xót thương và mới nói rằng có một cõi Tịnh Độ ở phương Tây. Điều này
nghe như một lời hứa hẹn. Đây là một điều rất quan trọng cần phải quán chiếu. Nếu
muốn thật sự hiểu được kinh, ta cần phải quán chiếu cho sâu sắc.
Đối tượng sự ước muốn
và sự thờ phụng của mình ban đầu thường nằm ở ngoài mình, như Thượng đế, như
Ky-tô, như Bụt, như Tịnh Độ, như nước Chúa… Lúc đó mình có cảm tưởng ở đây và
bây giờ không có gì hết, chỉ có khổ đau, chỉ có tàn hoại, chỉ có héo hắt, chỉ
có sầu não thôi. Chính vì thế mình mới cần bám vào một cái gì ở nơi khác và ở
trong tương lai. Đó là nước Chúa, là Tịnh Độ, là Niết Bàn, là Bụt, là Bồ tát,
là Ky-tô. Tâm chúng sanh thường nghĩ như vậy. Sự suy nghĩ này bắt đầu từ một mặc
cảm mình là một con số không. Mình đi tìm một cái gì bên ngoài mình. Mình không
biết rằng những gì bên ngoài ấy đều là những điều do tâm mình phóng chiếu ra cả.
Khi mình tạo ra một bức
tượng để thờ, dù là tượng Phật hay tượng Chúa, tượng điêu khắc hay tượng vẽ,
thì bức tượng ấy cũng từ trong tâm mình mà đi ra. Cái tượng ấy nếu không phải từ
trong tâm mình đi ra thì nó từ đâu tới? Tâm mình thảnh thơi, nhẹ nhàng thì nét
mặt trên tượng sẽ thảnh thơi, nhẹ nhàng. Tâm mình nặng trĩu buồn đau thì mình
khó mà tạo ra cho được một pho tượng có khuôn mặt thảnh thơi.
Do đó, tất cả
những hình ảnh của Thượng đế, của nước Chúa, của Tịnh Độ, đều là những sáng tạo
của tâm.Và đó mới là những hình ảnh chứ chưa phải là những thực tại.
Khi ta tạc ra một pho
tượng Bụt để thờ, và thấy pho tượng không được đẹp cho mấy, ta không dám bỏ đi,
không dám đập vỡ, cứ nghĩ rằng đập vỡ thì mang tội. Nhưng tượng đó là do tâm
làm ra, chứ đâu phải ở ngoài đi tới. Tri giác sai lầm căn bản là ở chỗ chúng ta
có mặc cảm rằng chúng ta không là gì hết, chúng ta chỉ là khổ đau và tiều tụy. Vì
vậy chúng ta mới đi tìm kiếm một cái gì có giá trị ở bên ngoài. Những khi ta chắp
tay cầu nguyện, ước mơ, hoặc quán tưởng thì tự nhiên trong tâm có sự bình yên
trở lại. Có niềm tin, tâm từ từ tĩnh lặng. Có tĩnh lặng thì bắt đầu có trí tuệ,
từ từ ta thấy được rằng cái mà ta tưởng rằng ở ngoài, nó thực sự đang ở trong
ta.
Ban đầu ta thấy Bụt
là một thực tại ở ngoài ta. Sau một thời gian tu tập và giác ngộ, ta thấy Bụt
là một thực tại ở trong ta. Và nếu ta tu tập tinh tấn, thì ta thấy Bụt không phải
ở trong cũng không phải ở ngoài. Tại vì ở ngoài và ở trong chỉ là hai ý niệm,
trong khi sự thật vượt thoát các ý niệm ở trong và ở ngoài. Ta thử hỏi: Ở trong
là ở nơi nào? Nơi lá phổi hay nơi lá lách, hay nơi trái tim? Có một chỗ nào nhất
định không? Chính vì thế, các ý niệm ở trong và ở ngoài đều chỉ là những ý niệm.
Nói rằng Bụt, Niết Bàn, Tịnh Độ và nước Chúa không thể được gọi là ở ngoài, ở
trong hay ở chặng giữa được. Tại vì những ý niệm kia đều chỉ là những phạm trù
của tư tưởng mà thôi. Điều này rất là quan trọng để cho mình hiểu được kinh. Và
như vậy, đi tìm Tịnh Độ hay đi tìm Bụt có nghĩa là đi tìm tự thân của chúng ta.
‘‘Con đã tìm ra Thế Tôn, con đã tìm ra con.’’ Hai câu đó của bài thơ Tìm Nhau chỉ
có nghĩa như vậy. Ban đầu thì ta đi tìm Thế Tôn như một thực tại ở ngoài, nhưng
khi tìm ra được Thế Tôn rồi thì ta thấy rằng Ngài không phải là một thực tại
bên ngoài. Tìm thấy Thế Tôn đồng thời cũng là tìm thấy được tự thân, và ta thấy
được rằng Thế Tôn và ta không phải là hai thực tại riêng biệt.
Khi ta niệm một câu
‘‘Nam mô Bụt A Di Đà’’ thì một búp sen nhỏ được tượng hình ở trong đất Bụt. Niệm
thêm một tiếng nữa thì bông sen lớn lên thêm một chút. Cùng với công phu niệm Bụt
ấy mà đóa hoa sen lớn lên từ từ. Đóa sen đó là đóa sen của ta. Khi thành công rồi,
thì ta sẽ được sinh ra từ đóa sen đó. Đóa sen đó có thể là hạ phẩm, trung phẩm
hay là thượng phẩm, điều này tùy thuộc vào công phu tu tập của chúng ta. Đóa
sen đó nằm ở bên kia, nó được để dành cho những ai có tâm tu tập, dù là thời
gian này hay thời gian khác, dù thực tập nhiều hay ít. Nó bắt đầu tượng hình ở
bên kia nhưng đồng thời nó cũng đang được tượng hình ngay trong lòng mình. Có
phải vậy không?
Điều này là một điều
rất khoa học. Khi sư chú thở vào một hơi thở có chánh niệm và biết mỉm cười,
thì búp sen của sự an lạc và của hạnh phúc đã tượng hình trong người của sư
chú, đã nở trong trái tim của sư chú. Một đóa hoa an lạc của tình thương và của
tĩnh lặng. Ta dùng hình ảnh của một hoa sen để tượng trưng cho sự an lạc và
tĩnh lặng ấy. Tại sao phải đợi đến tương lai mới được hưởng bông sen kia? Tại
sao ta phải đợi qua Tây phương rồi mới được hưởng bông sen kia? Chỉ cần một câu
niệm Bụt thành khẩn, chỉ cần một hơi thở có chánh niệm là chúng ta có thể hưởng
được bông sen của sự an lạc và của thảnh thơi ngay bây giờ và ở đây.
Và Tịnh Độ nằm ngay ở
đây và bây giờ chứ không phải đâu xa. Đây là điều mà mình phải thấy. Đây là
cách nhìn Tịnh Độ bằng con mắt của các nhà thiền quán. Thiền đây không hẳn là
thiền Tổ sư hoặc thiền Như Lai mà là thiền nguyên thỉ, nghĩa là thiền mà chính
Bụt và các thầy, các sư cô thực tập cách đây hai ngàn sáu trăm năm, như thiền
Niệm Xứ, thiền Quán Niệm Hơi Thở, thiền Hiện Pháp Lạc Trú. Chúng ta thường hay
quên rằng đức Thế Tôn đã từng dạy chúng ta pháp môn ‘‘Hiện Pháp Lạc Trú’’, sống
an lạc ngay trong giờ phút hiện tại.
0 Comments