Thực Hành Vô Ngã by
Vô Ngã
Thiết Lập Tịnh Độ – Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Chương 1. Vài chi tiết về kinh A Di Đà
Trước khi đi vào kinh
A Di Đà, chúng ta phải biết một vài chi tiết.
Thứ nhất, trong Đạo Bụt
nguyên thỉ, phương pháp Niệm Bụt đã là một phương pháp rất quan trọng. Niệm Bụt,
niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí và niệm Thiên đều là những phương
pháp thực tập có ngay trong thời Bụt tại thế. Phương pháp này được gọi là Tùy
niệm, và ngay trong thời Bụt tại thế đã có nhiều người Phật tử thực tập Niệm Bụt.
Đức Thế Tôn có vững
chãi, có thảnh thơi, có từ bi, có hỷ xả, và mỗi khi nhớ tới đức Thế Tôn thì tự
nhiên mình thấy trong người khỏe, có được tính vững chãi, tính thảnh thơi của đức
Thế Tôn. Cho nên thời bấy giờ có nhiều người niệm Bụt.
Người ta thường chắp
tay và đọc: “Namo tassa bhagavato arahato sammà sambuddhassa” (Kính lạy đức Thế
Tôn, bậc Ứng cúng, bậc Chánh biến tri). Bhagavato: Thế Tôn, Arahat: Ứng cúng,
và Chánh biến tri là Sammà Sambuddhassa. Và sau đó, người ta tụng mười danh hiệu
của đức Thế Tôn: ‘‘Đức Như Lai là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Bụt,
Thế Tôn. Trong trang 203 của quyển “Thiền Môn Nhật Tụng năm 2.000”, quý vị sẽ
thấy có bài “Xưng Tán Tam Bảo”, bên trái là tiếng Hán Việt và bên phải là tiếng
Pali.)
Họ đọc mười danh hiệu
của đức Như Lai và họ hiểu được mười danh hiệu đó. Mỗi danh hiệu tượng trưng
cho một đức tính, một năng lượng của Như Lai. Khi đọc lên các danh hiệu đó thì
ta đã thấm được một ít năng lượng và thấy trong người có thêm vững chãi và thảnh
thơi. Tiếng Pali: “Iti pi so Bhagavà: Araham, Sammà-sambuddho,
Vijjà-carana-sampanno, Sugato, Lokavidu, Anuttaro purisà-damma-sàrathi,
Satthadeva manussànam, Buddho, Bhagàvati.”
Ngày xưa, người ta niệm
Bụt như vậy, và niệm Bụt là để có sự vững chãi, thảnh thơi, an lạc. Người ta
còn niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới… Vì thế, niệm Bụt là một pháp môn chính
thống ở trong truyền thống Phật giáo ngay từ ban đầu.
Theo nguyên tắc của
pháp môn niệm Bụt thì trước hết hành giả phải nghĩ rằng Bụt là một thực tại
ngoài mình. Ngài đang cư trú ở tu viện Kỳ Viên hay trên núi Thứu. Khi niệm Bụt
như vậy, tự nhiên mình tiếp xúc được với sự thảnh thơi và vững chãi, với chất
liệu Từ, Bi, Hỷ và Xả trong con người của mình.
Khi ta bắt đầu thực tập
Niệm Bụt, thì Bụt là một thực tại ở ngoài, nhưng từ từ Bụt trở thành một thực tại
vừa ở trong, vừa ở ngoài. Tại vì trong tâm thức của ta cũng có những hạt giống
của vững chãi và thảnh thơi, của Từ, Bi, Hỷ, Xả, của Ứng cúng, của Chánh biến
tri, của Minh hạnh túc… như Bụt.
Khi ta niệm Bụt như vậy,
ta tiếp xúc được vừa với thực tại của Bụt ở ngoài và vừa với thực tại của Bụt ở
trong tâm. Nếu ta giỏi thì ta nhận thức ra rất sớm rằng Bụt luôn luôn có mặt
trong tâm ta. Nhờ đó nên khi Đức Thế Tôn qua đời, ta không còn than khóc nữa. Ta
biết rằng Bụt luôn luôn ở trong ta. Ngài không bao giờ mất. Nguyên tắc chỉ đơn
giản như vậy thôi.
Đối với người vừa mới
thực tập niệm Bụt thì Bụt là một thực tại ở ngoài. Nếu người ấy thực tập cho
sâu sắc thì Bụt trở nên một thực tại ở trong tâm. Và vì vậy, dù Bụt ở Tịnh Độ
hay Bụt ở ngoài Tịnh Độ thì Ngài vẫn có mặt trong tâm ta và trong tâm của ta vẫn
thường có Tịnh Độ.
Các thầy sau này đã
nói rằng Bụt A Di Đà có mặt trong tâm mình và Tịnh Độ cũng có mặt ngay ở trong
tâm mình. Đó gọi là “Duy Tâm Tịnh Độ”. Ý niệm – Tịnh Độ là một thực tại ở
ngoài, nằm về phương Tây – đó chẳng qua chỉ là ý niệm ban đầu. Nếu thực tập giỏi
thì ta sẽ thấy sâu hơn rằng Bụt A Di Đà và cõi Tịnh Độ không phải chỉ nằm ở
phương Tây mà còn nằm ở trong tâm mình và ở cả mọi phương. Như vậy, cả người thực
tập giỏi lẫn người thực tập chưa giỏi đều đạt tới kết quả, nhưng đối với người
tu tập giỏi thì kết quả rất lớn, còn người tu tập chưa giỏi thì kết quả chỉ vừa
vừa.



0 Comments