Thực Hành Vô Ngã by
Vô Ngã
Thiết Lập Tịnh Độ – Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Chương 2. Tịnh nhiễm do tâm
Trong Đạo Bụt nguyên
thỉ có kinh Đại Thiện Kiến Vương. Kinh này cũng có trong tạng Pali. Đọc kinh
này, ta thấy khung cảnh rất giống khung cảnh kinh A Di Đà ở trong truyền thống
Bắc Phạn. Trong kinh này cũng có nói đến “Thất trùng lan thuẫn, thất trùng la
võng, thất trùng hàng thọ,…” và ‘‘hoa sen lớn như bánh xe’’. Cảnh tượng giống hệt
như cảnh Tịnh Độ ở kinh A Di Đà.
Hồi đó Bụt sắp tịch,
thầy trò đang đi lên miền Bắc. Có lẽ Bụt muốn trở về thành Ca Tỳ La Vệ để nhập
diệt, nhưng khi tới được thành Câu Thi Na thì Bụt nghĩ rằng mình nhập diệt nơi
đây cũng được. Đây chỉ là một thành phố nhỏ. Thầy A Nan yêu cầu Ngài đừng nhập
diệt ở đây, đợi tới một thành phố nào thật đẹp mới nên nhập diệt. Đó là chiến
thuật của Thầy A Nan. Thầy muốn Bụt chậm nhập diệt giờ phút nào thì quý giờ
phút đó.
Thầy A Nan thưa: “Bạch
Đức Thế Tôn, thành phố Kusinagara này nhỏ xíu, phần nhiều nhà cửa được làm bằng
nền đất tường vôi. Đức Thế Tôn đừng nhập diệt ở đây. Đức Thế Tôn, xin Ngài đợi
đến một thành phố nào lớn hơn và đẹp hơn rồi hãy nhập diệt.”
Bụt cười và nói: “Thầy
đừng tưởng rằng thành phố này không đẹp. Ngày xưa, thành phố này đã từng là một
Tịnh Độ. Ta đã từng ở thành phố ấy.” Và Đức Thế Tôn tả cho Thầy A Nan nghe về
những nét đẹp đẽ, phồn vinh và hạnh phúc của quốc độ Câu Thi Vương ngày xưa của
vua Đại Thiện Kiến. Những điều này đã được ghi chép trong kinh Đại Thiện Kiến
Vương – Kinh số 68 của bộ Trung A Hàm. Quý vị sẽ thấy là trong kinh A Di Đà
cũng có những chi tiết giống hệt kinh Đại Thiện Kiến Vương.
Trong tạng Pali, kinh
này tên là Mahàssudarsana, nằm trong Trường bộ số 17. Kinh có ghi lời thưa của
thầy A Nan: “Bạch đức Thế Tôn, có những thành phố lớn khác như thành Vương Xá,
Xá Vệ, Ba La Nại… Tại sao đức Thế Tôn không nhập diệt nơi các thành phố ấy mà
Ngài lại quyết định nhập diệt ở nơi thành phố nhỏ hẹp này – một thành phố nhỏ hẹp
nhất trong các thành phố?”
Đức Thế Tôn nói: “Này
A Nan, Thầy đừng nói rằng đây là một thành phố nhỏ hẹp. Thuở quá khứ, thành Câu
Thi Na này có tên là Câu Thi Vương, giàu có cùng tột, dân chúng đông đúc. A
Nan, thành Câu Thi Vương dài mười hai do diên, rộng bảy do diên. Ở đây, người
ta đã dựng lên các tháp cao bằng một người, hai, ba, bốn cho đến bảy người. Này
A Nan, thành Câu Thi Vương ở bên ngoài có bảy lớp hàng rào bao bọc, rào được
xây bằng gạch với bốn loại châu báu là vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh; bảy lớp
hào thì được rãi bằng cát với bốn lớp châu báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy
tinh.
Này A Nan, Câu Thi
Vương được bao bọc bởi bảy lớp tường thành. Ở ngoài các lớp tường thành ấy,
cũng được xây dựng bằng bốn lớp châu báu vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Này A
Nan, thành Câu Thi Na cũng được bao bọc bởi bảy lớp cây đa la. Các cây ấy được
dựng bằng bốn lớp châu báu; cây đa la bằng vàng thì hoa, lá, trái bằng bạc; cây
đa la bằng bạc thì hoa, lá, trái bằng vàng; cây đa la bằng thủy tinh thì hoa,
lá, trái bằng lưu ly và hoa, lá, trái bằng thủy tinh thì cây đa la bằng lưu ly.
Này A Nan, khoảng giữa
cây đa la có đào những ao hoa. Trong các ao ấy có trồng các loại thủy hoa như
hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hoa sen trắng, hoa sen hồng. Bờ ao hoa ấy có đắp bốn
loại châu báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Ở đây, ao hồ trải cát bằng bốn
loại châu báu vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh. Trong các ao ấy, có thềm cấp bằng bốn
loại châu báu vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Này A Nan, các ao ấy được màn che
ở dưới, có chuông lắc ở giữa, bốn loại châu báu là vàng, bạc, lưu ly, thủy
tinh; chuông bằng bạc thì quả lắc bằng vàng và chuông bằng vàng thì quả lắc bằng
bạc.”
Nói tóm lại, ở trong
kinh này, ta thấy có những chi tiết về những vẻ đẹp của Tịnh Độ. Các vị Tổ sư
đã có nhiều tác phẩm chú giải kinh A Di Đà và nhiều tác phẩm diễn giải rất sâu
sắc. Chúng ta có thể thừa hưởng được những bộ sách diễn giải đó.
Ở Làng Mai, chúng ta
hãy học hỏi và thực tập kinh A Di Đà theo phương pháp thiền quán hiện pháp lạc
trú để đừng bị chìm đắm, dù là chìm đắm trong những lý thuyết thậm thâm vi diệu.
Chúng ta học hỏi và
áp dụng kinh A Di Đà trong đời sống tu tập hàng ngày của chúng ta, học hỏi và
thực tập như thế nào để có hạnh phúc, an lạc, vững chãi và thảnh thơi, để Đức A
Di Đà và cõi Tịnh Độ có thể có mặt trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Vì vậy,
trong những buổi giảng về kinh A Di Đà, tôi sẽ không sử dụng những tác phẩm diễn
giảng của các vị Tổ sư đi trước. Chúng ta hãy học kinh A Di Đà bằng nhãn quan mới,
chúng ta nhìn giáo lý của kinh A Di Đà bằng cách nhìn của đạo Bụt nguyên thỉ.
Ta nên biết rằng niềm
ao ước sâu xa nhất của con người là tìm ra được môi trường sống có an ninh,
tình thương và sự hiểu biết. Tất cả chúng ta đều mong ước có một môi trường như
vậy. Các đức Bồ tát, các đức Thế Tôn cũng thấy được ước muốn của chúng ta và của
mọi loài chúng sanh. Cho nên, bất cứ ai mà thực tập một cách thông minh và vững
chãi đều nghĩ tới sự thành lập những môi trường như vậy, để mình tự nuôi dưỡng
mình, và để mình có thể nuôi dưỡng những người khác. Vì vậy ý hướng thành lập Tịnh
Độ là tâm niệm của tất cả những người tu học. Trong chúng ta, người đã tu lâu
năm hay người mới tu cũng vậy, ai cũng ao ước thiết tha là làm thế nào để lập
ra một khung cảnh trong đó chúng ta được sống có thầy, có bạn, có an ninh, được
che chở, được thương yêu và có điều kiện đi tới trên con đường thành tựu đạo
nghiệp và chuyển hóa khổ đau.
Kinh A Di Đà cũng nằm
trong viễn tượng đó. Đức A Di Đà là người đã từng tu học và cũng đã có ước vọng
đó, nên Ngài đã tạo ra một khung cảnh có an toàn, có tình thương, có những điều
kiện để thực tập. Người chủ trương Tịnh Độ là Bụt A Di Đà, khung cảnh có tên là
Cực Lạc.
Chúng ta, ai cũng ôm ấp
ước muốn ấy. Chúng ta cũng muốn lập ra một khung cảnh để an trú, để có nơi đón
tiếp những người bạn của mình, những người thương của mình, mời họ đến đó để
cùng chung sống, cùng tu học, cùng hưởng được sự có mặt của vững chãi, thảnh
thơi, tình thương và sự an lạc. Tuy nuôi dưỡng tâm niệm đó, nhưng có khi chúng
ta không có nhiều may mắn. Chúng ta chỉ lập ra được một cơ sở, rồi chúng ta bị
mắc kẹt và chạy theo cơ sở ấy. Chúng ta mất hết thì giờ để xây dựng cơ sở,
nhưng chúng ta lại không tạo ra được một nội dung cho cơ sở đó. Nghĩa là tạo ra
được sự an lạc, hòa hợp và thanh tịnh của một Tăng thân. Nếu ta không tạo được
một khung cảnh có nội dung như vậy, thì ta chỉ là người làm nô lệ cho khung cảnh
mà thôi. Chúng ta phải chạy kiếm tiền để tiếp tục duy trì và phát triển cái vỏ
của những cơ sở ấy, rốt cuộc ta không có thì giờ để chăm sóc cho bản thân ta và
cho những người đến với ta.
Từ khởi điểm thì bản
nguyện ta cũng cùng bản chất với bản nguyện của đức A Di Đà, nhưng sau đó chúng
ta bị lầm lạc – lầm lạc đi sang một nẻo khác, đó là nẻo làm chùa. Việc làm chùa
khiến chúng ta trở thành một người bận rộn nhất trên đời. Ta mất hết thảnh
thơi, mất hết an lạc và bản hoài ban đầu của ta, ta không thực hiện được.
Xây dựng và kiến thiết
Tịnh Độ là hoài bão của tất cả chúng ta. Nhưng ta phải khéo léo lắm mới xây dựng
được một Tịnh Độ, nếu không, ta sẽ đánh mất bản thân của ta. Trú xứ ta xây dựng
phải có chất liệu an tịnh ta mới gọi nó là Tịnh Độ được. Khung cảnh mà chúng ta
muốn tạo lập ra phải có chất liệu “Tịnh” của nó.
Tịnh tức là không có
sự ô nhiễm. Sự ô nhiễm nào? Trước hết, ta gọi tên nó là sự bận rộn. Chúng ta bận
rộn quá, bận rộn về chuyện đi cúng, làm đám và xây cất. Chúng ta đâu có thì giờ
để tu học, đâu có thì giờ chăm sóc cho nhau, đâu có thì giờ thương nhau.
Có sự bận rộn là
không có tịnh, tức là nhiễm. Cõi của ta là Uế độ, không phải Tịnh Độ. Chúng ta
để tiền bạc thống trị chúng ta, chúng ta để tiền bạc và quyền lực của nó chi phối
chúng ta. Ở trong khung cảnh đó, người nào cũng muốn làm lớn, cũng muốn có uy
quyền với những người khác, người nào cũng muốn có tiền bạc. Cõi đó đâu còn là
cõi Tịnh Độ nữa. Vì trong khung cảnh đó, ta chỉ thấy có sự ganh tỵ, giận hờn và
sợ hãi. Tất cả các yếu tố ấy đều là bất tịnh. Những gì làm ô nhiễm môi trường
thì ta gọi là bất tịnh.
Ban đầu thì tâm chúng
ta rất tốt; ta muốn tạo ra một cõi Tịnh Độ. Nhưng vì thiếu khéo léo, thiếu
chánh niệm mà chúng ta đã tạo ra một cõi Uế độ. Bận rộn là yếu tố làm hư hoại
sinh môi của chúng ta, làm ô nhiễm môi trường sống của chúng ta.
Ô nhiễm tiếng Pháp là
pollution. Khi tới một đạo tràng, như Đạo tràng Làng Mai, chúng ta thử hỏi Đạo
tràng Mai Thôn có ô nhiễm không? Nơi đó có chuyện tranh giành quyền bính không?
Người ta có suốt ngày lo chuyện tiền bạc, người ta có bận rộn về chuyện tổ chức
quá không? Người ta có thì giờ để tu học, người ta có thì giờ để thương nhau, để
chăm sóc cho nhau không? Người ta có ganh tỵ, giận hờn và sợ hãi nhau không? Người
ta có sống an lạc không? Tất cả những câu hỏi đó ta có thể trả lời được.
Nhờ sự tu tập, nhờ sự
quyết tâm của ta mà ta giữ được khung cảnh thanh tịnh – khung cảnh của sự không
ô nhiễm. Đó là Tịnh Độ. Cõi của ta có thể là Tịnh Độ hay Uế độ, điều đó tùy thuộc
theo tâm niệm của những người sống ở trong cõi đó. Chúng ta có quyền và có khả
năng tạo ra một Tịnh Độ để sống với nhau, chăm sóc nhau, thương yêu nhau, giúp
cho nhau tu học và chuyển hóa. Chúng ta cũng có quyền tạo ra một Uế độ, trong
đó sự giành giật, sự ganh tỵ, sự sợ hãi, tiền bạc và quyền lực đóng vai trò
then chốt.
Khi đọc kinh A Di Đà,
ta nghe nói cõi Tịnh Độ (Sukhavati) là do đức A Di Đà sáng tạo ra bằng bốn mươi
tám nguyện lực của ngài. Kinh A Di Đà có nói về dân chúng của Tịnh Độ, và về
sinh hoạt hàng ngày của những người trong cõi Tịnh Độ.
Sáng sớm, những người
trong nước có thì giờ lấy lẵng vải đi nhặt hoa trên trời rơi xuống để đem cúng
dường các vị Bụt và Bồ tát ở các cõi nước khác. Họ đi bằng thần thông, nên sau
khi viếng thăm và cúng dường hoa cho các vị Bụt và các vị Bồ tát ở nước khác rồi
mà về vẫn còn dư thì giờ để ăn trưa. Ăn trưa xong thì đi thiền hành.
Những điều mình ưa
thích nhất trong kinh, mình có thể kể ra. Mỗi khi có gió nhẹ thổi qua, các hàng
cây xao động. Từ trong tiếng xao động của lá cành, nếu lắng tai, mình có thể
nghe được tiếng thuyết pháp về Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát thánh đạo
phần và Tứ thánh đế.
Và bay liệng giữa hư
không có những loài chim mầu nhiệm. Khi mình lắng nghe tiếng hót của các loài
chim ấy, mình cũng nghe được pháp âm của các đức Như Lai. Kinh không nói đến một
cách trực tiếp hay đầy đủ về phần đóng góp của dân chúng mà chỉ nói đến thần lực
của đức A Di Đà trong việc tạo ra một cõi Tịnh Độ.
Thật ra, trong một
khung cảnh sinh hoạt, tất cả những người tham dự đều có bổn phận đóng góp. Nếu
mình biết sống an lạc và thảnh thơi như những người đang sống ở Tịnh Độ, có thì
giờ lắng nghe tiếng gió trong cây, nghe tiếng chim, đi nhặt hoa cúng dường, ăn
cơm và đi kinh hành, tức là mình đã đóng góp được vào việc kiến thiết Tịnh Độ rồi.
Dầu đức A Di Đà có thảnh
thơi cách mấy, có vững chãi cách mấy, có thương yêu cách mấy, mà những người
vãng sinh về cõi A Di Đà vẫn còn bận rộn, vẫn còn tập quán bước đi như bước
trên than hồng, vẫn chưa nói được với nhau những lời ái ngữ thì cõi đó chưa thể
gọi là một cõi Tịnh Độ được cả.
Hãy tưởng tượng trong
cõi Tịnh Độ có một người đang đi như bị ma đuổi, hãy tưởng tượng trong cõi Tịnh
Độ có một người đang nói với người khác bằng giọng trách móc, chua chát. Cõi Tịnh
Độ tan biến liền lập tức.
Tịnh Độ là một sáng tạo
phẩm cộng đồng của đức A Di Đà và của dân chúng trong nước đó. Vì vậy, tịnh hay
không tịnh, tịnh nhiều hay tịnh ít, điều đó không phải chỉ do đức A Di Đà mà
còn do dân chúng trong cõi ấy nữa.
Khung cảnh mà ta tạo
ra ở Âu châu, ở Việt Nam hay ở Hoa Kỳ để cho một số người về tu học cũng vậy,
không phải chỉ là sáng tạo phẩm của người đứng ra thành lập mà là sáng tạo phẩm
chung của tất cả những người đã tới bằng bước chân thảnh thơi, bằng nụ cười hiền
hậu, bằng cái nhìn bao dung, bằng lời nói ái ngữ của họ. Như thế là mình cùng
chung sức tạo ra một cõi Tịnh Độ, trong đó mọi người được sống an ninh trong
tình thương và sự hiểu biết. Cho nên Tịnh Độ phải là một sáng tạo phẩm cộng đồng
mà không phải chỉ là sáng tạo phẩm của một người, dầu người đó là một người có
nhân cách vĩ đại như đức Bụt A Di Đà.
Ta hãy tưởng tượng một
người chưa biết đi thiền hành, bây giờ sanh sang bên kia và tiếp tục chạy như bị
ma đuổi. Đức A Di Đà sẽ gọi người ấy đến và nói: “Con hãy tới đây, Thầy dạy cho
con cách đi thiền hành.” Cố nhiên bên Tịnh Độ có rất nhiều vị giáo thọ, và đức
A Di Đà có thể dặn dò các vị giáo thọ kiên nhẫn dạy phép thiền hành, phép theo
dỏi hơi thở và ăn cơm chánh niệm cho những người vừa mới sanh về cõi Tịnh Độ.
Một ngày có không biết
bao nhiêu là người sanh về Tịnh Độ, nhiều lắm, mà chắc chắn là đức A Di Đà có đủ
số giáo thọ để lo dạy dỗ và hướng dẫn cho họ.
Nói như vậy để làm
gì? Nói như vậy là để chúng ta thấy rằng: dù đang ở trong cõi Ta Bà, chưa sinh
về cõi Tịnh Độ, nhưng nếu chúng ta đi được từng bước vững chãi và thảnh thơi, nếu
chúng ta biết sử dụng ái ngữ, biết thương yêu nhau và đùm bọc cho nhau, thì Tịnh
Độ đã có thể có mặt ngay tại đây rồi, và chuyện gia nhập vào cõi Tịnh Độ của đức
A Di Đà trở thành một chuyện rất dễ. Vì nếu ngay ở đây ta đã được có Tịnh Độ rồi
thì đi đâu cũng là Tịnh Độ cả. Mình không thể lấy Tịnh Độ ra khỏi con người của
mình được, mình ở đâu là Tịnh Độ ở đó, vì Tịnh Độ ở ngay trong tâm mình. Và vì
đã quyết tâm thực hiện Tịnh Độ cho mình và cho người, nên đi tới đâu là ta có Tịnh
Độ ở đó. Tịnh Độ là sáng tạo phẩm cộng động của mình với những người tham dự. Và càng thực tập, ta càng thấy rõ ràng rằng đức A Di Đà
và cõi Tịnh Độ là những sáng tạo phẩm của Tâm.
0 Comments