Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Thực Hành Vô Ngã - Vô Thường Là Vô Ngã
‘Hiểu vô thường trong tinh thần tương tức và tương nhập thì ta mới hiểu đúng giáo lý đạo Phật. Vô thường cũng chỉ là vô ngã đứng về phương diện thời gian mà nói, nhưng hai tính đó đích thực là một. Ngã tức là tính đồng nhất. Vô thường là tính thay đổi. Khi một cái gì thay đổi, nó không còn tính cách đồng nhất của nó, do đó nó vô ngã.’ - Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Hiểu vô thường trong
tinh thần tương tức và tương nhập thì ta mới hiểu đúng giáo lý đạo Phật. Vô
thường cũng chỉ là vô ngã đứng về phương diện thời gian mà nói, nhưng hai tính
đó đích thực là một. Ngã tức là tính đồng nhất. Vô thường là tính thay đổi. Khi
một cái gì thay đổi, nó không còn tính cách đồng nhất của nó, do đó nó vô ngã.
Phải hiểu vô thường
là vô ngã thì ta mới thực sự hiểu vô thường được. Nếu nói vô thường là bước thứ
nhất, sau khi học bước đó rồi thì mới đi bước thứ hai, mới hiểu vô ngã, nói vậy
là chưa hiểu đạo Phật. Theo đạo Phật, một giáo pháp trùm chứa tất cả các giáo
pháp khác. Nhất pháp nhập nhất thiết pháp, nhất thiết pháp nhập nhất pháp, one
dharma enters all dharmas, all dharmas enter one dharma, đó là lời Kinh Hoa
Nghiêm. Nhiều giòng tư tưởng khác cũng nói tới vô thường. Nhưng giáo lý vô thường
trong đạo Phật thật đặc biệt vì ở các truyền thống khác ít ai nói tới tính vô
ngã.
Vô thường là một chiếc
chìa khóa Phật trao cho chúng ta để mở cửa thực tại. Phật dạy chúng ta phải sử
dụng cái chìa khóa đó để đi vào thực tại. Nếu chỉ đàm luận, khảo cứu về vô thường
mà không thực tập vô thường quán trong đời sống hàng ngày thì chúng ta không sử
dụng chiếc chìa khóa như Phật ước muốn. Thay vì dùng chiếc chìa khóa để mở cửa
thực tại thì chúng ta đem cái chìa khóa đó đặt trên bàn thờ và sì sụp lạy. Dù
ta có lạy mỗi ngày một trăm lẻ tám lạy, thì cái chìa khóa đó cũng không có ích
lợi gì cả. Cho nên vô thường ở đây không phải là một lý thuyết, một triết học,
mà là một phép sống, gọi là vô thường quán (contemplation on impermanence). Mà
quán vô thường thì quán vào những lúc nào? Chúng ta quán trong khi ăn cơm,
trong khi rửa chén, trong khi giặt áo, trong khi tiếp xử với bạn bè, với anh chị
em, với bản thân và vạn vật quanh ta.
Bàn tay cầm chiếc
chìa khóa vô thường là chánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi
sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật. Quán chiếu như vậy
không phải là để than thở rằng vạn vật là vô thường, không có gì đáng lưu tâm,
thôi đừng làm gì nữa cho khỏe. Đó là một thái độ sai lầm rất lớn về vô thường.
Vô thường là một cơ hội
cho sự sống và cho sự chuyển hóa. Nhờ vô thường mà chúng ta có thể thực hiện được
mọi tự do. Chúng ta có thể làm cho khổ trở thành vui, chúng ta có thể thay đổi
tình trạng xã hội.
Đạo đế được thiết lập
trên căn bản vô thường. Đạo đế là để chuyển hóa sự vật, nếu sự vật không vô thường
thì đạo đế dùng để làm gì? Cho nên vô thường không phải là những nốt nhạc sầu
thảm, tiêu cực. Nếu anh, nếu chị nghĩ tới vô thường như những điệu nhạc sầu thảm,
thì anh và chị hoàn toàn không hiểu giáo lý vô thường. Rất ít người học Phật chịu
thấy điều đó. Trong khi ấy giáo lý rất minh bạch. Chúng ta mới học quán chiếu
mà đã thấy được rằng vô thường đích là vô ngã. Không vật gì có tính đồng nhất;
cái này liên hệ tới cái kia. Từ lúc ta bước vào thiền đường này gần một tiếng đồng
hồ đã đi qua, và ta đã thay đổi! Đứng về phương diện cơ thể và đứng về phương
diện tâm thức, ta đã thay đổi. Không khí và máu huyết trong ta, các tế bào
trong ta đã thay đổi. Ta không giữ được tính đồng nhất của ta trong hai mươi
phút liên tiếp. Cho nên ta vô ngã, và ta biết rằng ta được tạo thành bằng những
yếu tố không phải là ta. Hãy nhìn cây ti-dơn ngoài kia, ta cũng được cấu tạo
thành bằng chất liệu của cây đó. Nếu không có cây ti-dơn ở đó thì ta đã khác.
Cây ấy đã tặng cho ta rất nhiều niềm vui. Cây đó đã nuôi dưỡng ta trong mười mấy
năm nay. Nếu không có sư anh, sư chị, sư cô và sư chú thì ta sẽ khác, và như vậy
sư anh, sư chị, các sư cô và sư chú đã nuôi dưỡng ta, đã làm cho ta khác. Vì vậy
ta biết ta được làm bằng bao nhiêu yếu tố không phải là ta (the self is made of
non-self elements). Đó là vô ngã. Và ta phải thấy và biết rằng hạnh phúc, an lạc
của ta tùy thuộc nơi những yếu tố không phải ta. Sư em hạnh phúc được là nhờ sư
chị. Sư chị hạnh phúc được là nhờ sư em. Nếu một trong hai người không có hạnh
phúc thì người kia cũng khó có hạnh phúc. Vì vậy hạnh phúc không phải là vấn đề
của mỗi cá nhân. Điều này là tuệ giác phát xuất từ vô thường quán hay vô ngã
quán. Cho nên ta phải tu tập như thế nào để cho cha mình, mẹ mình và những người
quanh mình đừng đau khổ, thì lúc đó ta mới có hạnh phúc.
Đi tìm hạnh phúc
riêng tư là điều sai lầm phải tránh. ‘‘Tôi phải bỏ nhà đi, tôi phải bỏ cha, bỏ
mẹ, để đi tìm tự do, để đi tìm bản ngã và hạnh phúc cá nhân của tôi, tôi chỉ
còn cách đó.’’ Nói vậy không đúng. Vì tuy muốn bỏ đi nhưng không ai thật sự ra
đi được một mình! Trong tâm tư ta sẽ mang theo hết các thứ đi theo mà ta không
biết. Dầu có trốn đi biệt tích thì tất cả vẫn đeo theo bên ta. Tàng thức của ta
chuyên chở theo tất cả, không bỏ sót lại một cái gì. Cho nên vô thường quán hay
vô ngã quán giúp ta thấy được cách ta sống, cách ta hành xử như thế nào trong đời
sống hàng ngày, để ta có thể thực sự xây dựng an lạc và hạnh phúc.
Vô thường và vô ngã
là một. Thực tập quán vô thường thâm sâu thì tự nhiên ta thấy được lẽ vô ngã.
Thực tập vô ngã cho sâu sắc thì tự nhiên ta thấy được lẽ vô thường. Đó là tính
cách mầu nhiệm của nguyên lý tương tức tương nhập trong đạo Phật. Giáo lý
Duyên sinh (interdependence, co-production) trong đạo Phật giải bày sự hình
thành của các hiện tượng nương vào nhau mà có mặt. Cái này có thì cái kia có,
cái này không thì cái kia không. Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt vì
cái kia diệt. Cái này như thế này vì cái kia như thế kia. Duyên sinh cũng là vô
ngã và vô thường, nhìn từ một góc cạnh khác. Hiểu vô thường là duyên sinh thì mới
là hiểu vô thường đúng mức.
Quán sát một hiện tượng
nào đó trong thời gian và không gian, chúng ta có thể tưởng rằng nó bắt đầu ở
đây và chấm dứt ở kia. Nghĩ như vậy là sai. Vì mỗi hiện tượng trong không gian
và thời gian luôn luôn xúc tiếp và trao đổi với bên ngoài, với môi trường quanh
nó. Hiện tượng trao đổi này xảy ra trong từng giây từng phút. Đó gọi là duyên
sinh. Vì vậy vô thường cũng chỉ là duyên sinh mà thôi. Tu học, mỗi ngày mở tấm
lòng ta ra cho những điều kiện tốt đi vào nuôi dưỡng và chuyển hóa cho ta thành
ra tốt đẹp hơn, đó là thuận theo tính duyên sinh. Còn nếu ta khép cái vỏ sò của
mình lại kín bưng, tức là ta đã không thấy tính duyên sinh của chính mình.
Thay vì nói vô thường,
vô ngã, duyên sinh người ta có thể nói đến Không. Không trước hết là không có đồng
nhất tính, nghĩa là vô ngã. Nếu Không có nghĩa là Vô ngã, thì Không cũng có
nghĩa là duyên sinh.
Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Trích dịch từ nguyên bản Tiếng Anh:
0 Comments